Truy cập nội dung luôn
SỞ Y TẾ

TỈNH QUẢNG NGÃI

Dấu hiệu phát hiện sớm và phòng tránh bệnh bạch hầu

17/07/2020 12:30    158

Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm trùng - nhiễm độc do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae (còn gọi là trực khuẩn Klebs-Leoffler) gây ra. Vi khuẩn thường khu trú và làm thương tổn đường hô hấp trên (mũi, họng, thanh quản) tạo giả mạc dai dính, khó bóc tách và sinh ra ngoại độc tố gây nhiễm độc toàn thân (tim, thận, thần kinh), nguy cơ tử vong cao do tắc đường thở và viêm cơ tim. Bệnh lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh và kháng độc tố bạch hầu (SAD) và có thể dự phòng bệnh bằng vắc-xin.

Đường lây của bệnh là ổ chứa vi khuẩn bạch hầu ở người bệnh và người lành mang vi khuẩn, đây cũng là nguồn truyền bệnh. Người bệnh khi khỏi bệnh, còn mang vi khuẩn từ 2-6 tuần có thể 5-6 tháng. Bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Người mắc bệnh bạch hầu nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh dẫn truyền cơ tim, tử vong do đột ngột trụy tim mạch. Một số bệnh nhân bị viêm cơ tim và van tim, sau nhiều năm gây ra bệnh tim mãn và suy tim. Ngoài ra, bệnh cũng có thể dẫn đến thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận…

Bác sĩ Hồ Minh Nên, Giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ngãi cho biết: “triệu chứng của bệnh bạch hầu là sốt, đau họng, họng đỏ, ho, khàn tiếng, nuốt đau, chán ăn…  sau 2-3 ngày khám họng thấy có giả mạc. Giả mạc có màu xám, trắng bạc hoặc màu đen thường xuất hiện ở thành sau hoặc ở hạnh nhân hoặc thành sau họng. Giả mạc này dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu”.

Bệnh bạch hầu trước đây lưu hành khá phổ biến ở hầu hết các địa phương trên cả nước; năm 1923, vắc xin giải độc tố bạch hầu ra đời và sau đó được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng ở một số nước trên thế giới (Ở Việt Nam vắc xin phòng bệnh bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng từ năm 1984), bệnh đã được khống chế và chỉ ghi nhận một vài trường hợp lẻ tẻ do không tiêm vắc xin phòng bệnh, thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Hiện bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vắc xin phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh. Bệnh rất nguy hiểm, nếu chúng ta không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đặc biệt đối với  bạch hầu thể ác tính có thể dẫn đến tử vong hoặc những biến chứng nguy hiểm như là suy hô hấp cấp, viêm tim, viêm não, tổn thương ở thận, nhất là tổn thương ở hệ thần kinh sẽ gây nên chứng viêm đa rễ dây thần kinh.

Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, bác sĩ Hồ Minh Nên, Giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ngãi khuyến cáo: đưa trẻ đi tiêm chủng vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu đầy đủ, đúng lịch; thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắc hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi họng hằng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh; đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, dinh dưỡng hợp lý để nâng cao thể trạng tăng sức đề kháng; khi trẻ có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời; người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc, phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định, yêu cầu của cơ quan y tế”./.

Minh Hiền

Tài liệu đính kèm: B1.2020.21.jpg